GALANG, INDONESIA (NV)
- Chặng cuối cùng, cũng là chặng được hầu hết mọi
người trong nhóm chúng tôi chờ đợi trong hành tŕnh “Về Bến
Tự Do” là chặng đường đến đảo Galang, “Ngưỡng cửa của tự do
và t́nh người.”
Lối về Galang
Trong số
5 chiếc cầu phải vượt qua trước khi đến đảo Galang, th́
chiếc cầu đầu tiên có vẻ rất giống cầu Mỹ Thuận. Khi xe dừng
lại trên cầu cho mọi người xuống chụp h́nh, lập tức các xe
bán cóc, xoài, ổi, rồi bánh tôm chiên, khoai chiên, chuối
chiên, rồi lóc cóc xe cà rem từ đầu xuất hiện mời chào những
du khách mua v́ ṭ ṃ nhiều hơn là v́ muốn ăn.
Càng đi,
con đường hai bên càng không nhiều nhà cửa, chỉ bát ngát
những rừng cây. Lác đác, vài căn cḥi dựng bên đường bán bắp
nướng, vài trái dừa tươi, ít lon nước ngọt cho khách “bộ
hành.”

Cô Phi, bên trái và chị Nguyệt Hương đứng ngay cầu tàu
nơi từng là nơi có nhiều kỷ niệm với mỗi thuyền nhân,
là nơi chứng kiến hàng trăm ngàn người cặp bến cũng như ra
đi. (H́nh: Ngọc Lan/Người Việt)
Trừ vài
người thuộc Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam như chú Trần Đông,
chú Lưu Dân, c̣n lại tất cả những thuyền nhân đă từng ở
Galang, trong lần trở về đầu tiên này, đều không hề biết con
đường nhựa đang đưa họ trở về chốn cũ. Phương tiện duy nhất
ngày nào đưa họ đến chốn này chỉ là tàu và tàu.
Chỉ đến
khi ai đó phát hiện, “Ơ, h́nh như bến tàu ḱa!” th́ mọi
người trên xe bắt đầu lao xao.
Tiếng
người lao xao. Ḷng người lao xao.
“Chỗ này
h́nh như là các barrack ngày xưa nè phải không?”, “Đường lên
chùa đâu?”, “Nguyên cái khu này trước là chợ của bà con ḿnh
th́ phải?”, “Hồi xưa hai quán cà phê ở đây nè”, “Đây là ngă
ba ‘đường t́nh,’chỗ ‘Muốn người ta, người ta không muốn/Xách
cây dù đi xuống đi lên’ nè,” “Chỗ này là rạp chiếu phim
nè”... Xe cứ lướt qua, và những thuyền nhân xưa ráng h́nh
dung ra cảnh cũ bằng cách chỉ trỏ, hỏi nhau và tự nói với
ḿnh như thế.

Nhà báo Đinh Quanh Anh Thái đứng nh́n những barrack ngày
xưa c̣n sót lại nơi đảo Galang II.
(H́nh: Ngọc Lan/Người Việt)
Trên con đường này, có đoạn chúng tôi được cả một đàn khỉ
tung tăng bên lề, có lúc chạy ra cả ḷng đường, lom lom mắt
“chào đón.” “Chắc phải cả trăm con,” tôi ước lượng. Tiếng
nhiều người phản đối, “Trời ơi, làm sao mà một trăm. Phải
hàng mấy trăm, thậm chí cả ngàn con th́ có!”
Xe dừng
lại ở ngay chỗ rẽ vào trại tị nạn Galang, nơi có nguyên tấm
bản đồ “Camp Vietnam Galang Island,” những thuyền nhân
Galang năm nào nhanh chân nhảy xuống.
Vội
vàng.
Cuống
quít.
Họ muốn
nh́n ngay, nh́n liền, tận mắt nơi ghi dấu chân họ, ngày xưa.
Tiếng
anh Quế Chi, chị Nguyệt Hương, cô Hương, chen nhau, “Con
đường này dẫn ra cầu tàu nè. Con đường vẫn vậy nhưng hồi đó
không có nhà cửa như vầy.”
Đó là
con đường, như kiểu đường làng, trải đá, sạch sẽ, dài ngoằn,
hai bên cỏ lát mọc đầy, sâu hơn là chằng chịt cây to, cùng
dây leo quấn quít. Càng vào sâu bên trong, càng thấy nhiều
ngôi nhà mọc lẫn trong đó.
Vừa sải
đi trên đường, anh Chi vừa giơ máy thu lại những cảnh vật
chung quanh vừa nói, “Con đường này ngày xưa tôi đi nhiều
lần lắm, đi ra tiễn những người bạn đi định cư. Mỗi lần đi
là mỗi lần nôn nao.”
“Vui cho
người ta và buồn cho ḿnh.” Anh Vinh tiếp lời.
Tôi bước
theo họ, bằng những bước chân của anh trai tôi, cũng là một
thuyền nhân Galang của gần 30 năm về trước.

Từ trái, chú Trần Đông, chú Chính, anh Hùng, Abu, và chú
Lưu Dân trước miếu Ba Cô trên đảo Galang.
(H́nh: Ngọc Lan/Người Việt)
Trong
hành trang ngày tôi chuẩn bị đến đây, có con đường này, qua
lời anh tôi kể. “Anh nhớ nhất là mỗi lần anh ra bến tàu đưa
người ta đi và nhờ người ta gửi thư về cho ba má.” Tôi bước
đi, cố h́nh dung ra cảnh cả đoàn người kéo theo. Có kẻ náo
nức biết ḿnh sắp đặt chân đến xứ sở tự do. Có kẻ cố giấu
nước mắt che giấu sự thất vọng, chán chường bởi sự chờ đợi
quá lê thê.
Con
đường ra bến tàu không ngắn, đi bộ phải mất 30 phút.
Đang đi,
có tiếng hỏi, “Ở đây năm nào?”
Người
nói 79, người th́ 83, người 84.
Nh́n
lại, một người đàn ông Indo đang nói tiếng Việt. “Hồi đó tui
làm ở nhà máy nước đá nè.”
Người
đàn ông ngoài 55, tên Waril Usman, kêu mọi người đến và chỉ
cho xem ông c̣n giữ một số h́nh ảnh của trại tị nạn Galang
được ông dán trang trọng trên một tấm bảng, bọc nhựa để ngay
trên vách của quán cóc trước nhà ông. Có điều, bao năm rồi
phơi cùng nắng gió, hầu hết các tấm h́nh đều đă phai mờ.
Dẫu sao,
chỉ như vậy cũng đủ hiểu rằng, h́nh ảnh và t́nh cảm thuyền
nhân năm nào vẫn c̣n trong kư ức người địa phương.
Chúng
tôi lại tiếp tục ra bến tàu, nơi mà hầu hết những thuyền
nhân có danh sách định cư tại Mỹ, đều đặt chân đến.
Cô Phi,
ở San Jose, hồi tưởng, “Tôi nhớ cầu tàu này lúc tôi mới
xuống, có đại diện cao ủy đến bắt tay. Lúc đó tôi mặc cái áo
bà ba nhếch nhác.”
Chị
Nguyệt Hương, người đặt chân đến đây từ 26 năm trước, dẫn
tôi đến ngay chỗ “hồi đó tàu cặp vào đây. Chị từ trên bước
xuống tàu dưới trời mưa tầm tă để sang Penang rồi sang
Singpore.”
Trong
khi đó, chú Đinh Quang Anh Thái lại nhớ vị trí mà khi “tàu
tôi cặp vào đây, ông bạn của tôi, Nguyễn Hoàng Duyên, đến
Galang trước, đứng tại đây đón tôi.”
Ngay sát
cầu tàu, có một trạm xá, mà ai mới bước lên đảo cũng phải
đến đó lấy máu và khám sức khỏe.
Chú Lưu
Dân, người của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam, nói, “Cầu tàu
này có từ cuối thập niên 70, bằng cây. Sau đó v́ số người
đến quá đông nên cầu được xây lại bằng xi-măng.”
Cầu tàu
là nơi có nhiều kỷ niệm với mỗi thuyền nhân, là nơi chứng
kiến hàng trăm ngàn người cặp bến cũng như ra đi. Trước mặt
cầu tàu, là một quả đồi. Mỗi lần có chuyến tàu nào đi định
cư th́ bữa tiệc chia tay giữa người đi kẻ ở diễn ra tại đó.
Cái tên “đồi tạm biệt” cũng v́ vậy mà có.
Đồi tạm
biệt ngày xưa bằng phẳng, giờ đây ngút ngàn cổ thụ.
Các
thuyền nhân năm xưa, trong hành tŕnh ngược về chốn cũ này,
cứ đứng tụm lại cùng nhau, nhắc nhau nghe những kư ức nơi
bến tàu.
Không xa
cầu tàu, là xác một con tàu vượt biên c̣n sót lại, cùng câu
chuyện thảm khốc đă được bưng kín suốt nhiều năm. Người ta
kể lại, khi dân đánh cá địa phương vớt được con tàu, cứ ngỡ
đó là một chiếc tàu ma, bởi cứ thấy nó trôi lềnh bềnh, và
không một bóng người.
Khi đến
gần, mới biết trên tàu có 5 người c̣n đang thoi thóp. Sau
chuyến vượt biên dài 2 tháng, 5 người đó đă sống sót trong
số 22 người cùng tàu, nhờ cơn mưa bất chợt thấm tháp những
cuống họng khát cháy,
Tàu hư.
Lương thực cạn. Đói. Khát. V́ sự sống c̣n, họ đă phải ăn
thịt của những người đồng hành xấu số.
Họ được
chữa trị trên đảo Galang này, được đưa đi định cư tại nước
thứ ba trong thời gian sớm nhất.
Câu
chuyện trên được kể ra sau thời gian bịt kín, đă góp phần
làm đậm thêm nét đau thương và khốc liệt của trang sử thuyền
nhân.
Những dấu chân kỷ niệm
Rời cầu
tàu, chúng tôi đến thăm và ăn trưa tại nhà thờ Đức Mẹ Vô
Nhiễm và Kỳ Viên Tự. Trên con đường gần đến nhà thờ, cô Phi
thắc mắc, “Văn pḥng Nhà Báo Tự Do nằm ở đâu?” Chú Lưu Dân
cho hay, “Cũng ở gần đây thôi, nhưng nó không c̣n dấu tích
ǵ nữa. Khu vực đó cũng thành rừng rồi.”
Lang
thang cùng vợ chồng chị Quế Hương, chúng tôi nh́n thấy ngay
gần tại khu vực nhà thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm là hai dăy
“barrack,” nhà của những thuyền nhân ngày xưa trên đảo, c̣n
sót lại. Một dăy barrack đă sụp đổ, một bên cũng cũ kỹ và có
dấu hiệu mục nát theo thời gian, nằm khuất trong băi cỏ dại.
Anh Chi
lẩm bẩm, “Hồi đó có đường đất đi vào đàng hoàng chứ đâu cây
cỏ mọc kín hết thế này.”
“Bao lâu
rồi đâu c̣n ai ở đây,” chị Hương nói nhỏ.
Nhưng
chỉ cần có vậy, đủ giúp tôi h́nh dung “barrack,” nơi những
người ở trại tị nạn từng sống, là như thế nào.
Trong
lúc ngồi trên chiếc cầu đá bắt từ đường vào chùa ăn trưa
trong những hộp “to-go” chú Thái bỗng 'rêu rao,' “Đây là
pḥng thông tin Galang. Những đồng bào có số GN sau đây...
lên pḥng cao ủy để được phỏng vấn.”
Rồi lại
“Đây là pḥng thông tin Galang. Sau đây là danh sách rời
đảo...”
Câu
“thông báo” của chú Thái dường như càng đong thêm nỗi nhớ
cho những người đang t́m về ngày tháng cũ. Trong hành trang
tôi đến đây, cũng có chi tiết này. Anh tôi kể, ngày xưa, anh
trai tôi, cậu bé 15 tuổi, dù đang ở bất kỳ đâu, cũng dừng
lại lắng nghe thật kỹ câu thông báo này, xem có tên ḿnh
không, suốt 18 tháng.
Anh Quế
Chi nghêu ngao câu hát, “When I see you again...” Anh nhắc,
“Mỗi sáng có người đi là đài phát bài đó cả buổi. Cô Phi lại
nhớ mấy quán cà phê hay phát bài “Biển Nhớ” trong ngày này.
Từ Nhà
thờ Đức Mẹ Vô Nhiễm, chiếc xe đưa chúng tôi quay trở ra, đến
thăm Miếu Ba Cô.
Đó là 3
ngôi miếu nhỏ nằm dưới gốc cây da vừa được anh Hùng, một
thuyền nhân trong đoàn, đang ở Thụy Điển, cùng với những
người bạn là dân địa phương, sơn phết, tu bổ lại. Hai ngôi
miếu nằm liền nhau trước đây là “Miếu Hai Cô” (chữ c̣n ghi
trên miếu), một ngôi miếu nằm gần vuông góc với hai ngôi
miếu kia có vẻ được lập sau.
Câu
chuyện về cái chết của ba cô gái c̣n rất trẻ đă treo cổ tự
tử dưới gốc da này được kể lại theo nhiều cách khác nhau. Có
điều sự linh thiêng và ḷng tôn kính của mọi người dành cho
những người con gái mang theo cái chết tức tưởi trên bước
đường t́m tự do này, trước sau như một.
Khi
chúng tôi vừa đến nơi, trời bất chợt đổ mưa. Dưới những giọt
mưa ngày càng nặng hạt, những nén nhang được thắp lên,
nguyện cầu.
Trong
lúc chụp h́nh ngôi miếu, tôi hỏi Abu, một người Indo nói
tiếng Việt rất giỏi, nơi mà Abu từng trông thấy “Ba Cô” về
là ở đâu. Abu lắc đầu, “Thôi đừng nha.” Sau hỏi ra mới biết,
chỗ Abu nh́n thấy chính là chỗ tôi chụp h́nh cho Abu.

Nghĩa
trang Galang, nơi 503 thuyền nhân đang yên nghỉ. Cái giá của
tự do, đâu chỉ là những xác người trôi trên biển cả,
đâu chỉ là những người bỏ ḿnh v́ bệnh tật. Cái giá đó, đau
thương và khốc liệt hơn nhiều.
(H́nh: Đinh Quang Anh Thái/Người Việt)
Trên
đường từ miếu Ba Cô trở ra, chúng tôi dừng chân nơi trước
đây từng là nơi dựng tấm bia Tưởng Niệm Thuyền Nhân. Tuy
nhiên, chỉ 2 tháng sau khi bia được dựng lên, dưới áp lực
của nhà cầm quyền cộng sản Hà Nội, chính phủ trung ương của
Indonesia tại Jakata đă ra lệnh cho địa phương triệt hạ tấm
bia. Và hôm nay trở về, tấm bia đă bị cưa sát đất, chỉ c̣n
nhú lên vài cọng sắt.
Tấm bia
có thể bị phá hủy, nhưng trong ḷng mỗi người đều đă có một
tấm bia tưởng niệm cho những đồng bào đă thác oan trên đường
t́m tự do.
Cũng tại
đây, 3 trong số 4 chiếc tàu của người vượt biên được vớt lên
và trưng bày, đă bị đốt. Chiếc cuối cùng cũng đang bị gỡ
ván, loang lổ. Người dân địa phương làm chuyện này hay chính
quyền địa phương làm, v́ mục đích ǵ? Câu trả lời vẫn c̣n bỏ
ngỏ.
Xe tiếp
tục đưa chúng tôi đến Bảo Tàng Thuyền Nhân, nơi lưu dấu tích
một thời của thuyền nhân Việt Nam. Một chiếc ti-vi cũ. Một
chiếc radio bé xíu. Một chiếc đèn dầu. Một ấm nước c̣n đen
muội than. Một chiếc cối đá. Một cái thau nhôm. Tất cả đều
là biểu hiện của một thời cuộc sống người tị nạn đă hiện
diện nơi đây.
Cũng
trong viện bảo tàng này, trên những tấm bản lưu lại một số
tấm thẻ thuyền nhân, ai cũng đứng nh́n, t́m đọc xem ai đó có
quen. Cũng như vậy, ai cũng cố t́m xem trong khoảng 1,000
tấm h́nh chụp chân dung những người mới tới có ḿnh hay
không.
Lúc dừng lại chụp h́nh cổng chùa Tam Quan, tôi lại nhớ anh
trai tôi. Hành trang tôi mang theo cũng có ngôi chùa này.
Tôi nh́n lên con dốc, h́nh dung ra cảnh năm xưa anh tôi từng
chạy lên đó, t́m sự b́nh an trong những lúc nhớ nhà, buồn
tủi và chán chường.
Và nơi
dừng chân cuối cùng của chúng tôi là nghĩa trang Galang.
Chị
Nguyệt Hương nói, “nhớ hồi nghĩa trang này nằm tuốt phía
trong mà.” Chị đâu ngờ, ngày đó chỉ mới khoảng 100 người nằm
xuống, giờ đây, toàn nghĩa trang có đến 503 người, họ nằm ra
gần sát con đường độc đạo lên Galang này.
Tuy vẫn
nhuốm màu của sự lăng quên, nhưng nghĩa trang Galang không
tan thương và hoang tàn như nghĩa trang trong đảo Kuku hay
Air Raya.
Nơi đây
có những ngôi mộ mà ngày sinh và ngày mất trùng nhau. Có
ngôi mộ ngày sinh và mất cách nhau chỉ vài hôm. Có mộ do cha
mẹ lập cho con. Có mộ do con lập cho mẹ. Có mộ anh lập cho
em. Có mộ cháu lập cho d́.
Và có
rất nhiều ngôi mộ, tôi không biết ai lập cho người nằm bên
dưới, bởi, tất cả đă nhạt nḥa rong rêu.
Đặc
biệt, tại nghĩa trang này, rải rác trong khu mộ có nhiều
thanh niên qua đời trong độ tuổi 20, 30. Họ mất vào khoảng
thời gian năm 89-90-91 bằng cách tự thiêu hoặc mổ bụng, nhằm
phản đối chính sách cưỡng bách hồi hương. Ngay tại Miếu Ba
Cô, ngay tại “con đường máu,” theo lời chú Lưu Dân kể lại,
đă có người đầu tiên cầm dao mổ bụng vừa chạy, vừa chạy la
lên, “Đồng bào ơi, đồng bào ơi đoàn kết lại chống hồi
hương.” Và anh gục xuống.
Cũng tại
nghĩa trang này, c̣n có hai ngôi mộ nằm kề nhau, là chứng
tích cho một t́nh yêu của đôi trai gái đă cùng kết thúc cuộc
đời ḿnh ở vào tuổi 18, 19 đẹp nhất đời người. Sự xung khắc
của hai gia đ́nh cùng có mặt trên chuyến tàu vượt biên OR
0302104, cặp bến Galang ngày 16 tháng 3, 1990, họ đă thề
không đội trời chung. Bế tắc trước hận thù của cha mẹ, người
con trai đă tự kết thúc cuộc đời ḿnh ngay trước ngày được
đi định cư ở nước thứ ba. Người con gái cũng liều ḿnh theo
người yêu cho trọn lời nguyện ước.
Hai cái
chết vào đêm 24 tháng 3 năm 1993 đó không biết có đủ cho
những người lớn kịp nh́n lại.
Cái giá
của tự do, đâu chỉ là những xác người trôi trên biển cả, đâu
chỉ là những người bỏ ḿnh v́ bệnh tật. Cái giá đó, đau
thương và khốc liệt hơn nhiều.
Trời lại
đổ mưa.
Lắc rắc.
Xám xịt.
Văng
vẳng đâu đây câu hát:
“Chiều ra biển vắng ngậm ngùi
Nhớ em và nhớ cả trời Việt Nam...”
Tiếng
kinh của người Hồi Giáo trong chiều vắng vang lên, ru hồn
những người đang nằm lại nơi xứ người.
Ngày lên
đường rời Cali, hành trang tôi nhẹ lắm.
Giờ đây,
có lẽ không chỉ ḿnh tôi, mà hành trang ngày về của mọi
người đều dường như nặng thêm nhiều. Rất nhiều. Những tâm
tư. Đau nhói.