PULAU KUKU, INDONESIA
(NV).- “Tôi từng nghĩ trong cuộc đời ḿnh
phải có một lần trở lại chốn này để t́m lại những kỷ niệm,
dù chốn cũ đă thay đổi nhiều. Một lần thôi, t́m lại nơi có
những kỷ niệm rất ư nghĩa trong cuộc đời ḿnh. Hôm nay tôi
đă thực hiện được ước mơ đó.” Anh Quế Chi, người đă trải qua
những ngày sống tại đảo Kuku từ 27 năm trước, đă cố gắng
thật nhiều để kiềm chế cơn xúc động của ḿnh khi nói lên
điều đó.
Ngày thứ tư của hành tŕnh “Về Bến Tự Do” là một ngày
thật vui, thật mệt, và cũng thật nhiều nước mắt và cảm xúc.

Nhà báo Đinh Quang Anh
Thái, thuyền nhân xưa trở về thăm đảo Kuku sau 26 năm,
“Không nhận ra ǵ quen, ngoại trừ biển. Chỗ kia ngày xưa là
văn pḥng Cao ủy Liên Hiệp Quốc.”. (H́nh:
Ngọc Lan/Người Việt )
Đảo Kuku, hồi ức và kỷ niệm
Sau khi ghé thị trấn Letung để đón nhận sự chào mừng nồng
nhiệt của viên chức địa phương và cư dân trên đảo, con tàu
tốc hành tiếp tục đưa chúng tôi đến đảo Kuku.
Chú Lưu Dân, người của Văn Khố Thuyền Nhân Việt Nam, cho
rằng, “Đảo Kuku thuộc quần đảo Jemaja. Thực ra đó không phải
là đảo mà là băi biển.”
Có thể về mặt địa lư, gọi “đảo Kuku” là không chính xác,
nhưng cái tên “đảo Kuku” tự lúc nào đă trở nên gắn bó và
thân quen với bao lứa người tị nạn từng trải qua những ngày
không thể nào quên trên đó. Theo tiếng Indonesia, Kuku có
nghĩa là “cậu.” Tên đó được người dân địa phương đặt cho một
người Hoa đầu tiên đă đến khai phá khu rừng trên biển Kuku
cũng như hướng dẫn người bản xứ cách khai khẩn đất hoang.

Những ngôi mộ c̣n có may mắn đọc
được tên. (H́nh: Ngọc Lan/Người Việt )

Có những ngôi mộ chỉ c̣n
lại những ḥn đá nhỏ, không tên. (H́nh: Ngọc Lan/Người Việt
)
Lúc tàu gần cặp bờ, những người từng là thuyền nhân trên
Kuku bắt đầu xôn xao, “Ḱa, Kuku đằng trước ḱa.”
Tàu dừng lại, trước mắt mọi người là một khu rừng sát
biển, mênh mông lau sậy. Ngút ngàn cỏ và cây.
Sau khi lần lượt từng người phóng từ mũi tàu xuống bờ,
nh́n vẻ mặt rất hứng chí của chị Nguyệt Hương, hiện đang ở
Canada, tôi hỏi, “Ngày xưa chị ở đây, giờ trở về chị thấy lạ
không?”
Chị Hương cười rất tươi, “Tôi đang đi t́m lăng bác.”
Tiếng ai đó nói dồn, “Có hai cái lăng hai bên, đẹp lắm!
H́nh như là chỗ những mỏm đá đằng kia ḱa.”
“Lăng bác là cái ǵ? Tại sao gọi là lăng bác?” Tôi ṭ ṃ
Chị Hương lại cười, “Lăng bác là nơi đi ‘giải bầu tâm
sự.”
Ra là vậy. “Lăng bác” là nơi có nhiều ḥn đá chất chồng
tự nhiên nên không bị ảnh hưởng khi chính quyền địa phương
hỏa thiêu toàn khu đảo sau khi đóng cửa trại tị nạn như một
kiểu tổng vệ sinh. V́ thế, một số người trong đoàn lấy đó
làm nơi định vị để xác định những dấu tích xưa.
Nhà báo Đinh Quang Anh Thái nhờ tôi chụp dùm chú tấm h́nh
ngay tại mé biển, nơi mà “26 năm trước tôi tắm ở đây.”
“Không nhận ra ǵ quen, ngoại trừ biển. Chỗ kia ngày xưa
là văn pḥng Cao ủy Liên Hiệp Quốc.” Vừa đốt thuốc liên tục,
chú Thái vừa nói nhỏ.
Anh Vinh, ở Arizona, bồi hồi, “Kuku là chỗ tôi ở dài
nhất. Cảnh khác rất nhiều. Những cái cây to này lúc đó không
có. Tôi nghĩ đây là cầu tàu, kia là đường đi ra cầu tàu.”
Tôi nh́n theo những nơi anh Vinh chỉ để h́nh dung ngày
xưa trại tị nạn là như thế nào.
Đứng tại nơi đang bị bao phủ không ǵ khác hơn là cỏ dại,
chú Hanh - một thuyền nhân từng là đại úy pháo binh năm nào,
hồi tưởng, “Tôi nhớ hồi đó tôi ngủ chỗ này.” Chú quay sang
nói với chú Đức, em trai ḿnh, “Hai anh em ḿnh đi lấy củi
trên kia.”

Chị Nguyệt Hương, ở
Canada, cùng nhang và nước mắt cho người nằm xuống. (H́nh:
Ngọc Lan/Người Việt )
Trong khi đó, chú Đức, người có vẻ phong trần của một dân
cư miền biển, lại “nhớ chỗ mấy anh em ngồi nấu cháo, tán
dóc.”
“Trở về đây rất xúc động, nhưng vật đổi sao dời nên chẳng
c̣n mấy vết tích. Nhưng tôi nhận ra gốc cây này,” chú Đức
nói với tôi ngay tại cây cổ thụ, nơi con tàu vừa đổ neo.
Mỗi người nhớ một chút. Người đến trước không nhớ có gốc
cây to, người đến sau lại xem đó là nơi kỷ niệm. Chỗ này là
các barrack, chỗ kia là bệnh xá, xa xa băi đá là ‘lăng bác.’
Anh Vinh, được xem là người đến đảo Kuku sớm nhất so với
những người khác trong đoàn, mô tả với cả đoàn quang cảnh
Kuku thời đầu.
“Tàu tôi đến Kuku ngày 30 hay 31 tháng 6 năm 79. Lúc đó
thấy rất vắng người, và không hiểu v́ sao tàu lại bị đưa
sang đảo khác, rồi một tuần sau mới quay lại Kuku. Chỉ cách
nhau một tuần nhưng người đă đầy băi. Không c̣n chỗ trống
buộc ḷng chúng tôi phải mua lại chỗ mà những người đến
trước đă cắm cọc. Lúc đó cũng chưa có Cao Ủy Liên Hiệp Quốc
ở đây. Khoảng 1, 2 tháng sau họ mới xuất hiện. Rồi những
người dân địa phương cũng xuất hiện mua bán đổi chác với
người tị nạn. Và chỉ chừng hơn 3 tháng sau, đứng từ trên
nh́n xuống, nơi này trông như một thành phố, cũng có quán cà
phê, hàng quán chè cháo. Nói chung là ḿnh muốn ăn cái ǵ
cũng đều có bán. Tuy vậy cuộc sống chung của người tị nạn
rất đau thương. Nhiều người đă chết v́ dịch tả, v́ sốt rét
cấp tính.”
“Không tính những người chết trên biển, riêng ḥn đảo
Kuku này có khoảng 2,000 người đă chết và được mai táng. Tuy
vậy chỉ mới có 20 ngôi mộ được Văn Khố Thuyền Nhân t́m
thấy.” Chú Trần Đông, giám đốc Văn Khố Thuyền Nhân, cũng là
trưởng đoàn, cho biết thêm chi tiết trước khi đoàn người bắt
đầu lên “băi trực thăng” viếng Nghĩa Trang Thuyền Nhân
Nén nhang và lời cầu nguyện cho người nằm lại

Anh Quế Chi, người có vẻ
rất vui trong những ngày qua,
và luôn tươi cười khi nh́n ra những cảnh cũ, vậy mà, nơi
nghĩa trang này, anh đă khóc. (H́nh:
Ngọc Lan/Người Việt )
Sau khi ‘nhận diện’ nơi ḿnh từng sống qua những ǵ c̣n
sót lại, cả đoàn 22 người, theo sự hướng dẫn của những tour
guy địa phương, bắt đầu tiến sâu vào rừng.
Qua một chặng dài đường bằng phẳng chỉ chen chúc cỏ dại
cỏ lát, đôi chỗ che lút đầu người, càng vào sâu con đường
càng lên dốc và khó đi.
Những người khỏe đi trước, ch́a tay kéo những người lớn,
những phụ nữ theo sau. Ngoại trừ người địa phương, chú Trần
Đông, chú Lưu Dân thuộc Văn Khố Thuyền Nhân, và anh Hùng,
anh Huy, hai người đă tham gia hành tŕnh “Về Bến Tự Do” đến
4 lần, các thành viên c̣n lại trong đoàn, kể cả những thuyền
nhân từng sống ở Kuku, cũng chưa bao giờ đặt chân đến “Nghĩa
Trang Thuyền Nhân” này.
Tôi cứ phải dừng lại thật lâu xem ḿnh có thể thay từ ǵ
khác cho hai chữ “nghĩa trang” nơi đây không.
Thật lâu và thật lâu
Tôi không chọn được.
Cứ hăy gọi nơi đó là nghĩa trang. Một nghĩa trang đau
thương và tàn nhẫn.
Những cái được gọi là “mộ” chỉ lác đác chưa đầy một bàn
tay. C̣n lại đa phần chỉ “có vẻ là một ngôi mộ” của ngày
xưa.
Một miếng đá to to. Một mảnh đá đă bể. Những ḥn đá nhỏ
đắp quanh quanh. Tất cả đều là dấu tích cho biết có thể ai
đó đă nằm yên dưới khoảng đất này.
Bó nhang được thắp lên và chia cho những người có mặt.
Không ai cần lên tiếng hỏi “phải cắm ở đâu.”
Cứ đi và cắm xuống.
Một ḥn đó chỏng chơ nơi đây, một nhóm đá nhỏ đắp nhô
lên, cũng có thể từng là nơi yên nghỉ của một người đă không
thể đi trọn hành tŕnh đến bờ tự do.
Tất cả những người trong đoàn đều không có thân nhân nằm
lại nơi đây. Nhưng nét đau thương vẫn cứ hiện trên gương mặt
mỗi người.
Tôi bước đi, nh́n những ḥn đá, chụp những tấm h́nh, qua
ống kính mờ nước. Tôi tự hỏi, ḿnh có đang vô t́nh giẫm lên
ai đó đang nằm bên dưới kia không?
Đằng này một tiếng nói khẽ, “Cô này chết lúc mới 16
tuổi.”
Đằng kia giọng ai th́ thầm, “Có để tên người chết đó
nhưng ḿnh không đọc được.”
Những tiếng sụt sùi. Những gương mặt cúi gằm che đậy cảm
xúc.
Anh Quế Chi, người có vẻ rất vui trong những ngày qua, và
luôn tươi cười khi nh́n ra những cảnh cũ, vậy mà, nơi nghĩa
trang này, anh đă khóc.
“Tôi sống ở đây, nhưng giờ trở lại tôi mới biết có khu
nghĩa trang này.” Anh Chi cố kiềm nén nỗi xúc động của ḿnh,
môi cắn chặt, tay nắm chặt, đứt quăng từng câu nói.
Lặng lẽ một góc khác, chị Nguyệt Hương, vợ anh, cũng đưa
tay lau nước mắt.
Chú Đinh Quang Anh Thái chọn cho ḿnh một góc nh́n ra
mênh mông rừng và biển. Những điếu thuốc lại cứ liên tục
được đốt. Lặng lẽ.
Đoàn người cúi đầu, cầu nguyện theo cách riêng của ḿnh,
cho linh hồn người đă khuất.
Theo lời đề nghị của vợ chồng anh Quế Chi, cả đoàn xúm
lại, mỗi người một tay nhổ cỏ và nhặt nhạnh rác rưởi quanh
khu nghĩa trang này, như một kiểu tảo mộ, “để nh́n cho ấm áp
hơn khi có bàn tay chăm sóc.”
Giă từ “Nghĩa Trang Thuyền Nhân” nơi băi trực thăng, cả
đoàn vào rừng sâu hơn nữa để thăm những thuyền nhân xấu số
khác. Đoạn đường càng lúc càng khó hơn. Nhiều dây leo cuốn
lối và nhiều chỗ trơn trợt hơn.
Đến ngang một con suối, muốn đi tiếp buộc phải bước qua
cầu khỉ. Phân nửa người bỏ cuộc. Gửi chiếc ba lô cho người
ngồi lại, cùng chiếc máy ảnh trong tay, tôi theo chân những
người đi trước.
Nơi đây, trong thăm thẳm rừng sâu này, tôi đâu ngờ có lúc
ḿnh lại là người chụp h́nh những mộ bia mà dạo cuối năm
ngoái trong một phóng sự viết về một người đi t́m mộ, tôi có
nhắc đến tên họ. Đó là mộ của Nhan Thị Mộng Hà, Vũ Tấn
Trung, Quách Thị Mai,… Những run rủi của cuộc đời, ai làm
sao nói trước.
Vào sâu thêm nữa lại bắt gặp những dấu tích của một
“nghĩa trang” hiu quạnh đến năo nề. Trong ẩm thấp rừng sâu,
mấy mươi năm rồi, có được bao bàn chân lần về chốn này để
thắp cho người nằm lại một nén nhang?
Tôi không biết đọc tiếng Hoa trên những mảnh bia c̣n sót
lại qua những tàn phá của thời gian. Tôi không đọc được tên
ai đă từng được khắc ghi trên phiến đá này trong ngày nằm
xuống mà giờ đây dấu tích đă phai nḥa.
Tôi nh́n những người chung quanh. Anh Vinh, anh Chi, chị
Hương, anh Huy, anh Hùng, chú Chính, chú Thái, cô Hương,…
những người đă đến bến bờ và đă trở về. Tâm trạng họ hằn in
trên gương mặt họ. Thương cảm. Xót xa.
Tôi ngồi xuống một cành cây ngă trong rừng. Thẫn thờ.
Anh Huy ở Georgia, người đă 4 lần tham gia chuyến đi “Về
Bến Tự Do,” cũng ướt đầm mồ hôi, nh́n tôi nói, “Ai bảo rằng
đi đây là sướng? Chị nh́n đi, cực lắm chứ. Đâu phải là cưỡi
ngựa xem hoa. Mỗi lần trở lại tôi không mong ḿnh sẽ t́m
thấy những điều ǵ mới lạ, mà mỗi lần quay về tôi lại thấy
cuộc đời ḿnh có ư nghĩa hơn. Những giá trị tinh thần mang ư
nghĩa tâm linh nhiều khi không nói hết.”
Tôi không đáp lại lời anh. Trong mênh mông quạnh quẽ của
khu rừng, bỗng vang lên một âm thanh ǵ đó thật lạ. Có ai đó
bảo, h́nh như hè đang đến, phải chăng là tiếng ve? Tôi lại
không nghĩ như vậy.
Cả đoàn quay trở ra. Tôi ngồi cùng nhà báo Đinh Quang Anh
Thái ngay trước băi biển Kuku, nơi các thuyền nhân xưa dừng
chân lên đảo.
“Trở về đây, tôi cảm thấy cuộc đời ḿnh đă măn nguyện.
Tôi thực không ngờ có ngày tôi trở về đây.” Và chú lại lang
thang, một ḿnh, t́m một góc khuất, đắm ch́m trong những kư
ức ngày xưa.
Trước bao la của đất trời, trước vô tận của biển cả, tôi
nh́n ra biển. Bao con thuyền đă từng đến đây? Bao xác người
đă tấp vào đây?
Quay nh́n lại vùng đất từng một thời là chốn tạm dung của
mấy mươi ngàn đồng bào tôi. Tôi không biết rơ ḿnh đang nghĩ
ǵ, muốn ǵ. Dâu bể của cuộc đời. Dâu bể của dân tộc tôi.
Bao giờ chấm dứt?
Buổi tối, những thuyền nhân ngồi lại cùng nhau trước hàng
hiên của một ngôi nhà trên xóm đảo Letung. Trong tiếng đàn
guitar của chú Chính, một thuyền nhân ở Phillipin, hiện đang
ở Úc, giọng hát thật lạ của chị Nguyệt Hương, vừa như da
diết, vừa như năo nề ai oán trong bài hát “Làng tôi” nghe
sao chất ngất những tái tê.
“Làng tôi có cây đa cao ngất từng xanh, có sông sâu lờ
lững vờn quanh êm xuôi về Nam…”
Đêm Letung, những đứa con Việt nh́n về quê hương “ch́m
chân trời mờ sương” ḷng tự hỏi ai gây nên nỗi bi ai này?