Singapore- điểm dừng năm xưa,
điểm hẹn hôm nay
LTS: Như tin Người Việt đă
loan, hôm Chủ Nhật vừa qua, phóng viên Ngọc Lan và Đinh
Quang Anh Thái của Người Việt đă lên đường đến những nơi
cách đây hơn 30 năm từng là các trại tị nạn của thuyền
nhân ở Đông Nam Á. Chuyến đi, theo cảm nhận của Ngọc
Lan, là “đến những nơi chưa bao giờ đến, t́m lại dấu
tích thuyền nhân Việt Nam.” Trong số báo hôm nay, Ngọc
Lan gởi đến độc giả những ghi nhận đầu tiên của cô trong
cuộc hành tŕnh này. Chuyến đi của hai phóng viên Anh
Thái và Ngọc Lan được bảo trợ bởi Luật Sư Nguyễn Hoàng
Duyên và công ty Vista Surgical Center Inc.
SINGAPORE
(NV)
“Trời ơi, Thái! Ḿnh không ngờ gặp Thái ở đây!”
“Trời ơi,
Phi! Cũng về chuyến này à?”
“Tôi là
Duật. C̣n đây là vợ tôi, Hương. Chúng tôi từ San
Francisco
đến.”
“Đây là
chú Đức đến từ Florida.
C̣n chú Hanh, anh ruột Đức, bay từ Úc sang.”
“C̣n đây
là Chi và Hương. Hai vợ chồng tụi này ở Canada...”
... Vừa
bước ra khỏi phi trường sau hành tŕnh dài gần cả 20 tiếng,
sự mệt mỏi bay biến bởi những tiếng chào, tiếng reo mừng của
sự t́nh cờ gặp gỡ giữa các thuyền nhân năm xưa. Ngoài hai
anh em Đức và Hanh, c̣n lại chẳng ai biết ai sẽ có mặt trong
chuyến “Về Bến Tự Do” này. Họ chỉ biết là ḿnh cần có mặt
tại phi trường
Singapore
đúng ngày đúng giờ để cùng về thăm những vùng đất xưa kia
từng dung chứa người tị nạn, những ḥn đảo từng lưu dấu chân
họ mấy mươi năm về trước.

Không hẹn mà gặp trong chuyến “Về Bến Tự Do”. Từ trái: Chú
Trần Đông, trưởng đoàn,
vợ chồng chú Duật, cô Hương ở San Francisco, chú Hanh ở Úc,
chú Đức ở Florida, cô Phi ở San Jose,
và nhà báo Đinh Quang Anh Thái. (H́nh: Ngọc Lan/Người Việt)
Kư
ức ngày xưa...
Nếu như
câu đầu tiên cách đây mấy mươi năm, các thuyền nhân thường
hỏi nhau khi mới đặt chân lên đảo là “Ở đây bao lâu được
‘đi’?” th́ hôm nay, “Anh/chị ở đảo nào?” là câu giới thiệu
mọi người với nhau trong chuyến “quay ngược hành tŕnh” này.
Ngoài vợ
chồng cô Hương và chú Duật, trên chuyến xe từ phi trường về
khách sạn, cô Phi ở
San Francisco,
chú Đức ở
Florida,
chú Hanh ở Úc cũng cười nói tíu tít như bắp rang. Thoạt nh́n
cứ ngỡ họ là một gia đ́nh. Sau mới biết, 3 người cùng đi
trong một chuyến tàu, ở cùng một đảo, và giờ đây, ngoài anh
em chú Hân và Đức đă hẹn cùng nhau, họ không ngờ gặp cả cô
Phi trong chuyến đi này. Mọi câu chuyện đều quay về những
ngày ở đảo.

Họ cùng ra đi trên một chuyến tàu, cùng ở trại tị nạn, và
hôm nay,
họ lại hội ngộ cùng nhau trong hành tŕnh ngược về chốn cũ.
Từ trái, cô Phi,
chú Hanh và chú Đức. (H́nh: Ngọc Lan/Người Việt)
“Nhớ khi
ấy, hai anh em mà có 3 cái quần ‘xà lỏn’ à. Thành ra người
phải tắm sáng, người tắm chiều để có cái thay.” Chú Đức kể
trong tiếng cười nắc nẻ.
Cô Hương
góp vô, “Vậy là hơn tui rồi. Tui chỉ có một cái một. Lúc đi
trên tàu, mặc hai cái quần tṛng vào nhau, nhưng 4, 5 ngày
ngâm dưới nước biển, lúc bước được lên bờ, nó rách dài từ
dưới lên trên.”
“Em nhớ
anh Hanh khi ấy bảo chừng nào sang được nước thứ 3, anh sẽ
mua ngay một kư nho, chạy vào pḥng, cất ch́a khóa và ngồi
ăn cho đă.” Cô Phi nhắc chuyện.
“Ba kư,
chứ không phải một kư!” Chú Hanh, với giọng từ tốn và hóm
hỉnh của người trên dưới 70, cải chính. “Ôi, lúc đó cái ǵ
cũng thèm. Đến gạo người ta phát ăn cũng phải dè sẻn, để
dành dụm, sợ sang đảo khác có c̣n cái mà ăn.”
Chú Duật
kể, “Tôi nhớ khi đó trên đảo c̣n hoang sơ lắm. Họ cứ cắm nhà
ở dài dài, tiêu tiểu tại chỗ nên ruồi thôi là ruồi. Chỉ cần
giơ tay một cái là bắt cả nắm nên gọi là ‘Đảo Ruồi.’”
“Năy giờ
tụi tui cứ thắc mắc, hồi xưa đám đàn ông con trai ra suối
tắm là đúng rồi. Thế c̣n phụ nữ khi đó tắm ở đâu?” Chú Đức
lại hỏi “cắc cớ.”
“Th́ chắc
cũng phải có cách nào tắm chứ. Tự dưng lại quên mất rồi.” Cô
Phi, cũng từng là “cư dân” của Galang những năm 82, 83 trả
lời...
Chuyện nọ
tiếp chuyện kia, cứ vậy, rôm rả ngay từ những lúc đầu hội
ngộ.
Kỷ niệm
những ngày cḥng chành trên biển.
Kỷ niệm
khi tàu cập bến tự do.
Kỷ niệm
những ngày đói khổ “cả tháng trời mỗi ngày chỉ một chén cháo
cầm hơi.”
Kỷ niệm
những ḥn đảo lúc c̣n hoang sơ với người đến trước, lúc đă
“trù phú,” “tiện nghi” với người đến sau.
Kỷ niệm
“tăng gia sản xuất” trồng rau muống để “sáng rau, chiều rau,
tối rau.”
Kỷ niệm cứ
vùi những hạt đậu xanh xuống cát, sau đó nó nhô lên thành
giá.
Kỷ niệm
được người ta dạy nấu ăn nhưng họ không cho ḿnh ăn, khiến
“buồn ghê lắm”
Kỷ niệm cứ
mỗi tối mấy mẹ con dắt nhau ra hàng hiên nhà người ta ngồi,
như những kẻ “homeless,” “ngồi vậy thôi, chẳng biết để làm
ǵ, chờ đợi cái ǵ,”
Kỷ niệm và
kỷ niệm. Cứ đua nhau tuôn về. Ồ ạt.
Có điều,
tất cả đều nhắc lại những ngày mà tương lai chưa biết đâu là
bến là bờ với những nụ cười gịn tan, những câu nói tiếu
lâm, cùng những t́nh cảm yêu thương, quyến luyến, không một
chút ân hận, hối tiếc.
“Tụi tui
nằm trong số người đến đảo khá sớm, nên tất cả mọi thứ trên
đảo đều c̣n rất hoang sơ. Cây cỏ, rừng rậm um tùm, cứ vậy
rồi ‘phát hoang,’ rồi đốn cây mà làm nhà, làm giường,” cô
Hương kể.
Sau 7 lần
vượt biên, bị bắt, ở tù, tiền bạc tài sản hầu như chẳng c̣n
ǵ, cuối cùng vợ chồng cô Hương cùng ba đứa con, lớn nhất
12, nhỏ nhất lên 5, cũng đặt chân tới đảo Letung.
“Đầu tiên
là tới Mă Lai. Nhưng nó không cho tàu cập bờ, nó đuổi ra bởi
các đảo của nó đông quá rồi. Nó dùng tàu lớn buộc dây vô tàu
ḿnh để kéo ra biển trở lại. Thấy sợ lắm, sợ bể tàu. Cuối
cùng, mọi người quyết định cắt dây, để mặc cho tàu trôi bồng
bềnh trên biển. Sau đó, một chiếc tàu của Indo thấy và hướng
dẫn ḿnh về đảo Letung.” Vợ chồng chú Duật nhắc lại.
Rất t́nh
cờ, tôi được biết, chú Duật là một trong số những người đầu
tiên kêu gọi quyên góp tiền xây ngôi chùa trên đảo Galang,
cũng như dự phần vào việc hướng dẫn mọi người làm các hầm
phân tự hoại, thiết kế hệ thống nước do UNICEP tài trợ.
Chú Duật
kể, “Lúc đó có nhiều người tốt lắm nha. Có những ông thợ mộc
cũng đi vượt biên, giỏi lắm. Ngày nào họ cũng vác đồ nghề
lên xây chùa. Nhiều người dân địa phương cũng tốt.”
Ngôi chùa
chưa kịp hoàn thành th́ gia đ́nh chú Duật đă lên đường đi
Mỹ. Công việc c̣n lại những người sau tiếp nối.
“Ở
đây như một Việt Nam không có Cộng Sản”
Chiếc xe
đưa chúng tôi từ phi trường về một khách sạn không nằm trong
trí tưởng tượng về một Singapore “sạch như lau” và “không
một cọng rác.”
Đó là một
xóm b́nh dân, rất b́nh dân. Khách sạn với những gian pḥng
nhỏ hơn bất kỳ pḥng khách sạn nào mà tôi đă từng ở. Đặc
biệt, cả khách sạn, kể cả pḥng tiếp tân, đều không có
Internet.
Có điều,
với mọi người, nơi xóm b́nh dân này có một cái ǵ đó gần gũi
đến nao ḷng: giống Việt Nam, giống khu Chợ Lớn.
Trong
đoàn, đâu chỉ có một, hai hay ba, mà có nhiều người chưa
từng đặt chân về đến mảnh đất tổ tiên kể từ ngày ra đi. Dù
rằng, có đôi lần, họ đang có mặt ở những cột mốc mà đứng bên
này có thể nghe tiếng gà Việt Nam đang gáy.
Chính v́
nó giống quá nên đến đây lại ngỡ như bước chân về nhà. “Tôi
cảm thấy sướng quá! Cứ như về Việt Nam mà không có Việt Cộng
vậy.” Chú Đức, một thuyền nhân năm xưa, một bác sĩ hôm nay,
thích thú nhận xét.
Cũng những
ngôi nhà lụp xụp, quần áo phơi trên sào ngổn ngang ngoài
sân, những người dân bắc ghế ra ngồi trước hiên, những hàng
quán đông nghịt người ăn uống, nhậu nhẹt, đường phố như mắc
cửi, xe chạy ngang chạy dọc như xông trận, và những kẻ băng
qua đường cứ như những “chiến sĩ tiên phong liều ḿnh” bất
chấp luật, bất chấp xe...

Nơi xóm b́nh dân này ở
Singapore có một cái ǵ đó gần gũi đến
nao ḷng: giống Việt Nam,
“Cứ như về Việt Nam mà
không có Việt Cộng vậy.” (H́nh: Ngọc Lan/Người Việt)
Người dân
địa phương, cũng như dân Việt Nam ḿnh, cứ lom lom mắt nh́n
chúng tôi, chẳng cần che đậy, giấu giếm. Chúng tôi cứ đi.
Khám phá. T́m hiểu. Tại sao lại có một Singapore chưa hề
nghe nhắc đến thế này. Đường cũng rác, cũng dơ. Thiên hạ
cũng “cà chớn” đúng kiểu đa phần dân Châu Á, không chào hỏi
mà cứ thích sân si, trịch thượng.
“Tôi không
quan tâm những chuyện đó. Tôi chỉ muốn đi t́m về những nơi
ḿnh đă sống thôi.” Cô Phi, cô Hương nêu nhận xét.
Sao cũng
được. Sau khi khám phá một tiệm ăn và nhậu rất giống kiểu
Sài G̣n, cả đoàn người kéo nhau đi kiếm trái cây nhiệt đới
mà mua.
Tha về nào
sầu riêng, nào ḅn bon, nào măng cụt, nào mít, nào đu đủ,
nào ổi, nào mận, đến nỗi chú Thái tủm tỉm cười, “Ăn ǵ mà ăn
lắm thế!”
Trong căn
pḥng bé tí, chen nhau ngồi trên giường, những thuyền nhân
năm xưa lại râm ran tiếp chuyện ngày xưa. Họ kể nhau nghe,
và kể tôi nghe, nỗi khát khao được một lần quay về thăm trại
tị nạn.
“Hồi ḿnh
đến đảo chỉ mới ngoài ba mươi. Giờ này ai cũng muốn trên
‘sáu bó’ hết rồi. Không đi bây giờ th́ c̣n có dịp nào mà
về.” Chú Duật tâm sự.
“Chuyến đi
này của tôi như một hành tŕnh quay ngược 31 năm về trước.
Ngày xưa, từ Việt Nam tôi đi, đến Letung, đến Galang, rồi
đến Singapore, rồi đến Mỹ. Bây giờ tôi đi ngược lại. Y chang
như vậy.” Chú Duật nói thêm.
“Tôi mổ
thay đầu hai đầu gối nên cả 3 năm nay không đi đâu hết.
Nhưng chuyến này phải đi thôi, về thăm lại nơi cũ. Có nhiều
người tốt với ḿnh hồi trước ở đó. Không biết bây giờ họ c̣n
sống không.” Cô Hương chia sẻ.
Cô Phi nhẹ
nhàng, “Tôi trông chờ chuyến đi này lâu lắm rồi. Lúc mới qua
ai cũng túi bụi với cuộc sống mưu sinh. Khi đă ổn định rồi
th́ hầu như ai cũng muốn quay về thăm nơi cũ. Tôi nghĩ ai
cũng sẽ xúc động lắm khi đặt chân về đảo.”
“Tôi
‘plan’ trước chuyến đi này cả 3 tháng nay. Nôn nao lắm. Tôi
nhớ hoài cảm xúc của tôi khi đặt chân đến đảo. Chưa bao giờ
tôi hát vang với một niềm xúc động đến vậy.” Chú Đức, khác
hẳn mọi người về suy nghĩ lần đầu lên trại tị nạn.
“Đó là
thiên đường. Bởi mục đích ḿnh đi không phải là vật chất, mà
muốn thở hơi thở tự do nên đó là ‘the best time of my
life.’”
Sau tháng
4 năm 1975, chú Đức trải qua hơn 6 năm trong “trại cải tạo.”
Sau khi ra tù, chú đi vượt biên liên tục. Đi, bị bắt. Ra tù,
lại đi. Đến chuyến cuối cùng là chú đi ngay sau khi ra tù
đúng một hôm.
“Ḿnh đang
ở trong tù Cộng Sản ra, được sang đến xứ tự do, ‘feelings’
ḿnh ‘good’ lắm.” Chú Đức nêu cảm tưởng.
Ngày đầu
tiên trên đất Singapore đă trôi qua như thế.
Trưa nay,
mọi người sẽ xuống tàu, quay ngược hành tŕnh t́m về chốn
xưa.
Trưởng
đoàn báo trước, mọi phương tiện sinh hoạt, điều kiện sống
trong những ngày tới sẽ c̣n “khó khăn” hơn cho những ai đă
quá quen với sự đầy đủ tiện nghi. Nhưng có sao đâu, “ai đă
trải qua những ngày ở đảo rồi th́ không có nơi nào mà không
sống được. Rồi cũng xong.” Cô Hương kết luận chắc nịch.
Cô quên
rằng, trong đoàn c̣n có một kẻ ngoại đạo, là tôi.
|