Ngọc Lan/Người Việt
WESTMINSTER (NV) - “Nếu bây
giờ có dịp quay về đảo, nơi anh đă sống những ngày chờ nơi
định cư, anh có nhận ra nó không?”
“Không
biết những ngôi nhà, những 'barrack' ngày xưa có c̣n không.
Gần 30 năm rồi, nhưng anh nghĩ là anh sẽ nhận ra. Dầu ǵ anh
cũng đă sống ở đó 18 tháng...”
Ḍng hồi
ức của anh, một thuyền nhân năm nào, đưa tôi trở về với
những cảm xúc, những kư ức đă nằm yên hơn một phần tư thế
kỷ.
Ngày 1
tháng 1 năm 1981, sau khi đă khẩn khoản cùng ba má, “Cho con
ở nhà ăn Noel với các em xong rồi con đi,” anh, đứa con trai
15 tuổi khi ấy, rời gia đ́nh, rời ṿng tay chăm sóc của cha
mẹ, giă từ nụ cười trong vắt của những đứa em gái c̣n rất
nhỏ, bước chân làm “kẻ vượt biên,” phó mặc số phận ḿnh cho
trời định.
Chuyến đi
của anh bắt đầu từ Nhà Bè.
Sau 4 ngày
5 đêm, tàu anh đến một ḥn đảo nhỏ, “anh không nhớ tên.”
Người dân trên đảo đó h́nh như cũng chưa quen với việc có
người tị nạn. Họ gọi cảnh sát.
Sau khi
giữ chiếc tàu của anh lại, cảnh sát chở mọi người sang một
ḥn đảo khác. Anh ở đó một tháng trước khi được chuyển đến
đảo Galang 1, sau đó là Galang 2.
“Khi đặt
chân lên đảo, cảm xúc anh như thế nào?” tôi, đứa em gái được
8 tuổi vào ngày anh ra đi, hỏi anh trai ḿnh kư ức của những
ngày tháng cũ.
“Lạ lắm.
Anh đâu có h́nh dung ra là lại có đông người tị nạn như
vậy.” Anh nhớ lại.
Như một lẽ
thông thường, câu đầu tiên ai cũng hỏi khi đặt chân lên đảo
là, “Khi nào ḿnh được đi?” Anh cũng vậy, không ngoại lệ.
Người ta
trả lời, “Có khi 3 tháng, khi 6 tháng, hoặc có thể một năm
hoặc lâu hơn nữa.” Anh đă hy vọng ḿnh sẽ nằm trong số đông,
“khoảng 4 đến 6 tháng,” sẽ được đặt chân đến một vùng đất tự
do nào đó.
Thế nhưng
anh đă sống trong “tâm trạng khó diễn tả” ở đảo đến 18
tháng.
“18 tháng
ở đảo vào thời điểm đó so với mọi người là khá lâu. Anh cũng
không biết tại sao, cũng có thể v́ anh chẳng có ai thân
thích ở nước ngoài,” anh hồi tưởng.
“18 tháng
sống ở Galang, điều ǵ khiến anh nhớ nhất?”
“Anh nhớ
nhiều lắm,” giọng anh như chùng lại.
“Anh nhớ
những lần anh đưa người ta lên tàu đi định cư. Anh gửi cho
họ những lá thư nhờ họ gửi về nhà cho ba má.”
“Anh nhớ
nhất mỗi lần trại thông báo tên người đi lên phỏng vấn th́
dù đang ở bất cứ nơi đâu trên đảo, anh cũng đứng lại, lắng
nghe. Có ngày họ đọc 1, 2 lần. Mỗi lần như vậy cứ ráng nghe
xem có tên ḿnh không, không có anh lại buồn. Rất buồn.”
Anh dừng
lại. Đâu đó trong tiềm thức, h́nh ảnh của một đứa bé, chưa
kịp làm người lớn, bị bức khỏi người thân, mờ mịt một tương
lai, cứ như dậy sóng.
Tôi h́nh
dung. Tôi tưởng tượng. Anh tôi đó và những người như anh tôi
đó, đă bồn chồn, đă nín thở để lắng nghe tên ḿnh, để rồi
thất vọng, tái tê. Không chỉ một lần, một ngày, một tháng,
một năm, mà ṛng ră suốt ngần ấy thời gian. Như một tṛ cân
năo.
Số phận
đâu chỉ thử thách ḷng người trong những ngày lênh đênh trên
biển. Số phận c̣n tôi luyện họ, những thuyền nhân, bằng
những tiếng gọi loa đó. Hy vọng thật nhiều. Và suy sụp cũng
không ít.
“Anh nhớ
những người có thân nhân gửi tiền đến th́ họ có tiền mua
thêm đồ đạc, quần áo. C̣n những đứa như anh, mỗi thằng chỉ
có 2 cái quần đùi. Hôm nay ra suối tắm, giặt, phơi. Mai thay
cái kia, giặt phơi cái này. Ḿnh không có thân nhân, không
có tiền, không có đồ. Có vài người quen biết, khi họ được đi
định cư, họ cho lại cái quần cái áo để khi ḿnh lên gặp phái
đoàn th́ ḿnh cũng lành lặn chút xíu.”
Anh lại
lặng im một thoáng.
Những điều
chừng như nhỏ nhặt đến vậy, nhưng trong cơi riêng của mỗi
người, nó lại là một cái ǵ đó, thật đắng cay và cũng thật
dịu dàng.
“Anh c̣n
nhớ ǵ nữa không?” Tôi khó nhọc phá tan sự im lặng.
Giọng anh
miên man, “Trong đầu anh nhớ nhiều lắm.”
“Ở Galang
có một cái chùa và một cái nhà thờ. Mỗi lần anh buồn, anh
lên chùa. Chùa xa lắm, ở tuốt trên núi lận. Mỗi lần anh
buồn, anh lại lên đó, ngồi nghĩ về gia đ́nh để thấy ḿnh
thanh thản hơn, rồi cứ khấn vái. Anh lên chùa, rồi th́ anh
lên nhà thờ luôn. Anh cũng không biết ḿnh lên đó để làm ǵ.
Anh cứ đến cầu nguyện.”
Tôi cắn
chặt môi.
Ngoài anh,
bao nhiêu người nữa, vẫn giữ trong tâm tư ḿnh h́nh ảnh một
đứa trẻ, lẻ loi, cô độc, cứ cắm đầu chạy lên núi, che giấu
những giọt nước mắt, che giấu những nỗi buồn đôi khi đến
tuyệt vọng, t́m đến sự chở che của đấng bề trên, không cần
là Phật, không cần là Chúa, ai cũng được. Nó chỉ muốn t́m
một chút b́nh an, để tiếp tục hy vọng một ngày mai. Xa xăm.
Mờ mịt.
“Chùa tên
ǵ anh không nhớ tên. Nhưng anh nhớ rất rơ nó nằm ở đâu, nhà
thờ nằm ở đâu. Ở đó có cái rạp hát để cho những người cảnh
sát giải trí. Mỗi lần muốn coi phim anh leo lên nóc nhà nằm
coi. Bởi chung quanh nó rào lại hết, ai muốn xem th́ phải
mua vé, anh không có tiền, th́ anh cùng mấy người bạn leo
lên đó coi.” Anh bật cười.
Anh hỏi
tôi sẽ đến đảo nào trong chuyến đi Đông Nam Á này. “Sẽ đến
Galang, và một số trại khác,” tôi trả lời anh.
“Ừ. Nếu có
dịp anh cũng sẽ về trại tị nạn để hồi tưởng lại những kỷ
niệm xưa.”
Tôi biết,
ở đầu dây bên kia, anh đang đốt thuốc.
Những đắng
cay, những tuyệt vọng, những ngày đói khổ đều đă qua. Nhưng
trong chất chồng những kư ức, Galang và những ngày vui buồn
cùng nó, như vẫn vẹn nguyên một tâm t́nh trong anh, trong
ḷng một thuyền nhân.
....
Nh́n tất
cả những ǵ cần thiết phải có cho cuộc hành tŕnh đang nằm
gọn trong chiếc vali, tôi thầm nghĩ, “ủa, chỉ có vậy thôi
ư?” Tôi chưa bao giờ rời khỏi nơi này với hành lư nhẹ nhàng
như vậy.
Quần áo đủ
mặc.
Máy chụp
h́nh.
Chiếc
laptop
Và
Thêm những
thứ, thật đặc biệt, trong hành trang lên đường lần này của
tôi.
Kư ức của
anh tôi.
Kư ức của
bạn tôi.
Và những
lời nhắn gửi của độc giả.
Để bước
chân ra đi chiều nay, thật nhẹ nhàng nhưng cũng lắm mông
lung.